TS. Phạm Thị Ly
Những
ngày qua, cả xã hội sôi sùng sục lên vì điểm tuyển đầu vào ngành sư phạm quá
thấp, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy sự “xuống giá” của nghề giáo, và kéo theo
nó là sự lo lắng cho chất lượng giáo dục những năm tới, mà trước mắt là cho
những nỗ lực đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Liệu có lời giải nào cho
bài toán nhức đầu này?
Nhìn ra bên ngoài
Chúng
ta không đơn độc trong tình cảnh nói trên! Sự phát triển nhanh chóng của khoa
học công nghệ và những biến đổi trong kinh tế đã tạo ra nhiều ngành nghề mới và
cơ hội thu nhập cao cho những người giỏi. Trong khi đó, giáo viên là một nghề
nghiệp ăn lương, cho dù lương có cao hơn mặt bằng trung bình của xã hội, thì
cũng vẫn không thể so được với thu nhập của giới lao động kỹ năng cao trong các
doanh nghiệp. Ở Mỹ, một phần ba giáo viên bỏ nghề trong vòng ba năm đầu. Ưu
điểm đặc biệt của nghề giáo là tính ổn định, vì nhiều nước có chế độ biên chế
suốt đời cho giáo viên phổ thông. Nhưng hệ thống biên chế cũng đang được xem
xét lại vì tính chất trì trệ mà nó gây ra. Điều này khiến cho địa vị của nghề
giáo ngày càng giảm, và ngành sư phạm ngày càng khó tuyển người giỏi. Vì thế,
khi nhà nước vẫn muốn duy trì chất lượng tốt của hệ thống giáo viên, thì tất
yếu là thiếu người. Thực trạng này diễn ra khắp nơi trên thế giới, từ Tây sang
Đông, từ Âu sang Á.
Một
ví dụ cho tình trạng trên đây là Singapore. Singapore được coi là một trung tâm
về kiến tạo tri thức, khoa học và công nghệ của khu vực, về nhiều mặt đang ở
trình độ không thua kém các nước phát triển khác, thậm chí còn là một trong 39
nước nằm trong danh sách các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Thành tựu đó
chính là kết quả của chính sách bảo toàn chất lượng giáo dục, vì nguồn lực con
người hầu như là tài sản duy nhất mà Singapore có được.
Để
bảo toàn chất lượng giáo dục trong bối cảnh không thu hút được người giỏi,
Singapore đã làm gì? Chính phủ đưa ra học bổng “Phục vụ cộng đồng” nhằm thu hút
sinh viên giỏi, tăng lương và tạo mọi điều kiện thăng tiến cho giáo viên.
Singapore đã áp dụng mô hình đào tạo sư phạm linh hoạt để khích lệ người giỏi
vào ngành và tạo điều kiện để chuyển đổi dễ dàng. Những người muốn theo nghề
giảng dạy có thể vào trường sư phạm sau khi tốt nghiệp phổ thông, để lấy bằng
cử nhân giáo dục. Những người đã tốt nghiệp ĐH ở các ngành khác cũng có thể học
hai năm lấy bằng thạc sĩ giáo dục để đi dạy. Trong khi chuẩn mực về nghề dạy
học không ngừng được nâng cao, Viện trưởng Viện Giáo dục Sư phạm Quốc gia nhấn
mạnh rằng việc tuyển dụng không nhất thiết phải quá nhấn mạnh việc dạy giỏi, mà
cần quan tâm hơn đến những phẩm chất quan trọng là sự tận tụy và tính liêm
chính. Điều này nói lên một sự chuyển đổi trọng tâm rất đáng quan tâm trong
nghề sư phạm, từ việc bám sát nội dung và thiên về lý thuyết sang tập trung vào
thái độ làm việc, những giá trị và sự tận tâm.
Ở
Mỹ cũng có mô hình tương tự. Nhà nước khuyến khích các trường cao đẳng cộng
đồng, các trường ĐH truyền thống, kể cả các trung tâm đào tạo của tư nhân tổ
chức các khóa huấn luyện phương pháp sư phạm cho những người mới tốt nghiệp ĐH
hoặc từng có thời gian làm việc trong các ngành nghề khác nay muốn dành ra một
quãng thời gian trong đời để làm nghề dạy học. Có nơi số giáo viên mới vào nghề
thông qua các chương trình đào tạo như thế chiếm tới 25% tổng số giáo viên, còn
ở California, chỉ có gần nửa giáo viên mới vào nghề là tốt nghiệp từ các trường
hay các khoa sư phạm theo lối truyền thống (theo David G.Imig, Liên hiệp các
trường sư phạm Hoa Kỳ).
Một
giải pháp khác khi không đủ người, là tuyển dụng giáo viên người nước ngoài. Đó
là điều Bộ GD Singapore đã làm với các môn tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Tamil.
Tuy
nhiên, bài toán của chúng ta có hơi khác. Bài toán của chúng ta, thật oái oăm,
không phải là thiếu, mà là thừa giáo viên.
Vì sao nên nỗi?
Thật
nghịch lý khi nghề sư phạm vốn không mấy hấp dẫn do thu nhập thấp, công việc
đầy áp lực, địa vị xã hội ngày một sút giảm, chỉ được mỗi ưu điểm là ổn định
–tuy gần đây ưu thế này cũng không còn nữa ở Việt Nam vì không tìm được việc và
mất việc đang là nỗi lo thường trực – thế nhưng vẫn có người thi vào sư phạm,
và cách đây vài năm Bộ GD-ĐT đã cho biết hiện thừa khoảng 35 ngàn giáo viên
trong cả nước.
Những
gì ta đang thấy hôm nay là kết quả những gì chúng ta làm trong một hai thập
niên trước. Rất nhiều sinh viên đã vào trường sư phạm vì chính sách miễn học
phí đối với các trường này, vì thế trước đây đã từng có lúc “tỉ lệ chọi” đầu
vào của trường sư phạm lên đến 1/30, tức chọn 1 trong 30 người nộp đơn, như
trường hợp Trường ĐH Sư phạm TPHCM. Tuy vậy, việc giảm số lượng học sinh từ
17,8 triệu em cả nước trong năm 1999-2000 xuống còn 14,8 triệu em trong năm học
2010-2011 và hiện nay là 15,4 triệu em (theo số liệu của Tổng cục Thống kê) đã
làm cho nhu cầu về giáo viên giảm mạnh.
Trong
lúc đó Việt Nam có một hệ thống trường sư phạm rất lớn. Tính đến 2017 cả nước
có khoảng 117 cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo giáo viên, bao gồm 14
trường đại học sư phạm, 24 trường cao đẳng sư phạm, và khoảng trên 80 trường
ĐH-CĐ cao đẳng không có tên sư phạm nhưng vẫn đào tạo ngành sư phạm (theo ước
tính của một vị lãnh đạo trường sư phạm). Chỉ riêng quy mô đào tạo ở 14 trường
ĐH sư phạm đã là 151 ngàn người. Trước tình hình cung vượt cầu, chỉ tiêu tuyển
sinh cho các trường sư phạm vẫn tiếp tục tăng đều hàng năm từ 3-5%. Thậm chí có
những trường với quy mô giảng viên nhỏ vẫn có chỉ tiêu tuyển sinh còn nhiều hơn
cả các trường lớn có uy tín lâu đời. Đà tăng về tuyển sinh của các trường sư
phạm chỉ chậm lại từ năm 2014 do Bộ có chủ trương giảm bớt quy mô đào tạo ngành
sư phạm nhằm giải quyết khủng hoảng thừa. Một ví dụ là Trường ĐHSP TPHCM tuy
năng lực tuyển sinh (dựa trên số lượng giảng viên và cơ sở vật chất) có thể đào
tạo được khoảng 4100 sinh viên, nhưng Bộ GD-ĐT chỉ giao chỉ tiêu 3700 trong năm
nay nhằm giảm áp lực thừa.
Tuy
nhiên, vấn đề số lượng không nghiêm trọng bằng vấn đề về chất lượng. Mặc dù nói
cho công bằng, không phải trường sư phạm nào cũng tuyển đầu vào với điểm quá
thấp (trường hợp năm nay ĐH Sư phạm Hà Nội và ĐH Sư phạm TPHCM có điểm đầu vào
của ngành cao nhất lần lượt là 27,75 và 26,25, nhiều trường khác lấy điểm sàn
15,5), nhưng chúng ta vẫn phải nhìn nhận là tổng điểm 9-10 điểm/ba môn để vào
cao đẳng sư phạm là không thể chấp nhận được. Đặc biệt là vì tốt nghiệp cao
đẳng có thể dạy các cấp lớp thấp, mà tác động của chất lượng thầy cô giáo với
các lớp học sinh nhỏ này còn quan trọng hơn nhiều so với học sinh trung học phổ
thông.
Hướng tới chất lượng thực sự của nghề sư phạm và của nền
giáo dục
Phần
Lan, Canada, Singapore, và Nhật được đánh giá là những nước có hệ thống giáo
dục rất chất lượng và hiệu quả. Việc tuyển dụng giáo viên chủ yếu là quyết
định của hiệu trưởng. Mặc dù bằng cấp là một điều kiện cần, mỗi trường sẽ nhấn
mạnh một số tiêu chí khác khi tuyển dụng giáo viên, bao gồm: điều kiện tiên quyết
cho hiệu quả dạy học (khả năng diễn đạt bằng lời, kiến thức cơ bản, quá trình
đào tạo, kinh nghiệm dạy học…); phẩm chất cá nhân (tính chính trực và tận
tâm…); kỹ năng tổ chức và quản lý lớp học, khả năng lên kế hoạch cho hoạt động
dạy và học; cũng như kỹ năng lên lớp, giám sát quá trình phát triển, hiểu biết
và khơi gợi được tiềm năng của học sinh.
Trước
đây xã hội đã từng có sự kính trọng đặc biệt đối với nghề giáo, bởi vì nghề
nghiệp này có thể tạo ra những tác động quan trọng với cuộc đời của mỗi người:
các thầy cô giáo có thể gây ra những tổn thương tâm lý suốt đời không hàn gắn
được cho trẻ nhỏ, hoặc có thể khơi gợi những tiềm năng, vun đắp lòng tự tin,
đánh thức thái độ sống tích cực, những thứ định hình cả cuộc đời sau này của
trẻ. Vì thế, tuy nghề nào cũng đòi hỏi lương tâm nghề nghiệp, nhưng nghề sư
phạm đòi hỏi một ý thức đặc biệt cao trong lương tâm nghề nghiệp, ở mức độ cao
nhất, người ta coi đó là một sứ mệnh, và là ý nghĩa cuộc sống của mình.
Để
thu hút những người như thế, tiền lương phù hợp là một yếu tố quan trọng, nhưng
không phải là tất cả. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy, hiệu quả làm việc của
giáo viên không chỉ phụ thuộc vào việc họ đã được đào tạo và tuyển chọn như thế
nào, mà còn phụ thuộc mạnh mẽ vào môi trường làm việc của nhà trường. Môi
trường làm việc tốt đối với thầy cô giáo và tạo ra chất lượng giáo dục tốt, là
môi trường có sự hỗ trợ giữa đồng nghiệp với nhau, có sự tham gia thực chất vào
quá trình ra quyết định của nhà trường, có cơ hội phát triển sự nghiệp, và một
mức độ tự do đáng kể trong việc thực thi nghề nghiệp.
Tìm kiếm một giải pháp
Quy
hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm, xóa bỏ các trường cao đẳng và tính toán
lại quy mô đào tạo là những việc không khó làm, và sớm muộn gì Bộ GD-ĐT cũng
phải làm.
Khó
hơn nhiều là việc tái định hình nghề sư phạm theo một cách nào đó để nó đáp ứng
được yêu cầu của cải cách giáo dục phổ thông, và đáp ứng được những đòi hỏi
không chỉ của nền kinh tế, mà còn là của sự phát triển xã hội cũng như đòi hỏi
ngày càng cao của người dân trong một môi trường toàn cầu.
Bài
toán này phải nhìn trong tổng thể hệ thống, tức là trong bối cảnh phát triển
của nền kinh tế tri thức, của tiến bộ khoa học công nghệ, của cơ cấu việc làm
và đặc điểm các ngành nghề, và các hình thức lao động đang thay đổi từng ngày từng
giờ. Trong khi máy móc và công nghệ thông tin, đặc biệt là trí thông minh nhân
tạo đang làm thay con người nhiều việc, thì lao động sư phạm, đặc biệt là ở các
cấp học mầm non, tiểu học và phổ thông, vẫn có những đặc thù mà xã hội sẽ vẫn
tiếp tục cần đến trong nhiều năm tới, bất kể là trí thông minh nhân tạo có tiến
đến mức độ nào. Nhưng nó không thể tồn tại theo lối nó đã từng tồn tại nhiều
thế kỷ qua, tức là thiên về truyền thụ kiến thức, và nhằm vào thi cử, bằng cấp.
Nghịch
lý đã và sẽ tiếp tục tồn tại, là đòi hỏi đối với chất lượng người thầy ngày
càng lớn, trong lúc sự hấp dẫn của nghề sư phạm ngày càng giảm. Câu trả lời dễ
dàng nhất và cũng khó thực hiện nhất là tăng lương giáo viên nhằm thu hút người
giỏi. Tuy nhiên, cứ giả sử là lương có thể tăng (dù ta không nên quên là chỉ
cần tăng lương giáo viên hai triệu đồng mỗi tháng, là ngân sách phải có thêm
một tỉ đô la Mỹ mỗi năm), thì bản thân việc tăng lương cũng không bảo đảm chắc
chắn cho việc tăng chất lượng người thầy và chất lượng giáo dục.
Giữa
tiền lương với chất lượng người thầy và chất lượng giáo dục, có nhiều yếu tố
xen vào. Ít nhất, nó có liên quan đến quá trình tuyển sinh/ đào tạo trước khi
vào nghề, và liên quan đến việc tuyển dụng, quản lý giáo viên. Có một số nghiên
cứu cho biết tình trạng tham nhũng trong giáo dục ở Việt Nam chỉ đứng sau hai
ngành là nhà đất và cảnh sát giao thông. Nếu không sửa được tình trạng đó, thì
tăng lương bao nhiêu cũng sẽ không giải quyết được bài toán chất lượng. Tuy
nhiên, đó là một vấn đề khác ra ngoài phạm vi của bài này.Trở lại vấn đề tuyển
sinh và đào tạo ngành sư phạm, xuất phát điểm của các giải pháp hiện nay cần
gắn với thực tế của Việt Nam trong lúc vận dụng những kinh nghiệm của nước
ngoài. Cũng cần gắn với đòi hỏi của nhu cầu cải cách, nói vắn tắt là hướng tới
mục tiêu cá nhân hóa quá trình dạy và học, nhằm vào phát triển tiềm năng của
từng học sinh, và nhấn mạnh vào các giá trị sống cũng như những kỹ năng cốt lõi
thay vì chỉ tập trung vào kiến thức và thi cử.
Với
xuất phát điểm và mục tiêu như thế, cần phải cải cách mạnh mẽ các trường sư
phạm, không chỉ là quy hoạch hay tái cấu trúc, mà còn là thay đổi hẳn mô hình
đào tạo. Có lẽ cần nghiên cứu cách áp dụng kinh nghiệm của một số nước Đông Á
và phương Tây, khi họ thiết kế việc đào tạo sư phạm một cách linh hoạt hơn:
sinh viên có thể thi vào ĐH và lấy bằng cử nhân giáo dục (ở trường sư phạm,
hoặc các trường ĐH tổng hợp có khoa sư phạm), hoặc lấy bằng cử nhân về một lĩnh
vực chuyên ngành rồi sau đó học một khóa cao học để lấy bằng thạc sĩ giáo dục.
Mô hình thứ hai có ưu điểm là tạo ra con đường sự nghiệp linh hoạt cho sinh
viên. Học xong họ có thể đi dạy hoặc làm việc trong những lĩnh vực khác nhau,
tùy theo nhu cầu của thị trường và năng lực của họ.
Tuy
vậy, việc thay đổi mô hình không quan trọng bằng việc thay đổi triết lý đào
tạo. Các trường sư phạm cần điều chỉnh mục tiêu đào tạo sư phạm thành một mục
tiêu rộng lớn hơn, không chỉ là để sinh viên có thể sẵn sàng cho một nghề
nghiệp khác, mà còn là vì một nền tảng rộng như thế chính là cái mà chúng ta
cần đến nơi người giáo viên của tương lai. Các trường sư phạm cần phải đào tạo
ra những người có năng lực tự thay đổi và thích ứng, vì đó sẽ là một trong
những điều cần yếu trong một thời đại mà tất cả mọi thứ đều đang thay đổi từng
ngày từng giờ, và không ai biết ngày mai cái gì sẽ đến.
Theo TS. Phạm Thị Ly