Những
quan điểm này được Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội chia sẻ tại Hội thảo
Giáo dục 2018 tổ chức tại Hà Nội mới đây.
Quy
hoạch nhằm mục đích ổn định và phát triển
Theo GS. Nguyễn Văn Minh, thực
tiễn, từ những thập kỷ 80 của thế kỷ trước các trường cao đẳng, các đại học địa
phương có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho hệ
thống giáo dục quốc dân.
Kết quả của việc xóa mù chữ, phổ cập cấp tiểu học, THCS
có đóng góp rất lớn của hệ thống này. Vì vậy, đề cập đến quy hoạch, cần nghiên
cứu nhiều mặt, trong đó phải xem xét đến yếu tố con người, tác động xã hội và
chế độ chính sách.
Dựa
trên chiến lược phát triển KT-XH, bảo đảm an ninh quốc phòng
Có quan niệm cho rằng, tập
trung đầu tư cho các cơ sở chủ lực ở các thành phố lớn và co hẹp hoặc giải thể
các cơ sở vùng sâu, vùng xa. Theo GS. Nguyễn Văn Minh, đây là quan niệm khá cực
đoan. Có thể thấy rõ, khi một cơ sở giáo dục xuất hiện ở một địa phương có tác
động rất tích cực về nhiều mặt cho địa phương đó. Vấn đề là xác định được chức
năng, vai trò, nhiệm vụ của cơ sở trong hệ thống là gì để xây dựng quy hoạch.
Việc quy hoạch lại sẽ được
thực hiện theo hướng: Các trường đại học có chất lượng cao, có uy tín sẽ được
chọn làm trường sư phạm trọng điểm, các trường khác sẽ chuyển đổi hoạt động để
trở thành phân hiệu hay vệ tinh của các trường trung tâm này. Toàn bộ chương
trình đào tạo của các trường sư phạm sẽ được chuẩn hóa và sử dụng đồng bộ trong
toàn hệ thống để đảm bảo chất lượng đào tạo giáo viên ở các nơi được đồng nhất.
Xem
xét đến yếu tố địa lý, kinh tế - xã hội
Nguyên tắc thứ 3 được GS.
Nguyễn Văn Minh đề cập đến là qui hoạch cần xem xét đến yếu tố địa lý, kinh tế
- xã hội của từng vùng, miền trong mối tương quan với các cơ sở trọng điểm.
Khẳng định lại quy hoạch nhằm
mục đích phát triển, bởi vậy, theo Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, một
mặt phải phân định rõ ràng mục tiêu, nhiệm vụ, qui mô của mỗi cơ sở; mặt khác,
sắp xếp lại để tạo cơ hội phát triển đồng bộ, tránh việc phân bố dàn trải, đầu
tư nhỏ giọt và hạ thấp chất lượng. Xem xét yếu tố địa lý là nhằm kích thích sự
phát triển đồng đều giữa các vùng miền, tạo sự thuận lợi không chỉ trong quá
trình đào tạo mà cả trong quá trình bồi dưỡng trong tương lai.
"Ở đây, có thể đặt ra câu
hỏi, trong thời đại công nghệ số, có thể giải quyết bài toán bồi dưỡng trực
tuyến thay vì xây dựng các cơ sở bồi dưỡng ở các địa phương không? Có hai vấn
đề cần xem xét, thứ nhất cần có lộ trình thay đổi; thứ hai chúng ta không thể tuyệt
đối hóa mọi quy trình bằng con đường trực tuyến trong lĩnh vực giáo dục" -
GS. Nguyễn Văn Minh nêu quan điểm.
Tính
đến các đặc điểm bối cảnh hiện nay
Các đặc điểm chính, theo GS.
Nguyễn Văn Minh, đó là: Các
trường sư phạm có xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực đào tạo và nâng cấp các trường
trung học sư phạm, cao đẳng sư phạm thành trường đại học đa ngành. Các trường
sư phạm không chỉ đào tạo giáo viên và giáo viên, không chỉ đào tạo ở các
trường sư phạm. Nhu cầu số lượng giáo viên không còn cấp bách nữa, thậm chí đã
dư thừa, nhưng yêu cầu chất lượng nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên lại cấp
bách mới kịp đáp ứng hội nhập quốc tế, đáp ứng đổi mới căn bản toàn diện nền
giáo dục Việt Nam. Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên thiếu quy hoạch vĩ mô
và chưa gắn đào tạo ban đầu với bồi dưỡng liên tục và sử dụng giáo viên thành
một quá trình liên hoàn.
GS.
Nguyễn Văn Minh cũng đề cập đến sự thiếu gắn kết giữa các cơ sở đào tạo giáo
viên, giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học giáo dục, khoa học quản lý với nhau và
giữa hệ thống sư phạm với các trường thuộc hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông. Nếu thiết lập được sự gắn kết đó sẽ vừa tạo điều kiện cho cơ sở đào
tạo, nghiên cứu, vừa phối hợp nghiên cứu giải quyết những vấn đề của đặc thù
ngành Giáo dục.
Trong bối cảnh với các đặc
điểm nêu trên cho thấy, việc quản lý các trường sư phạm phát triển đội ngũ giáo
viên phải là đối tượng quản lý trực tiếp của Bộ GD&ĐT. Quản lý trực tiếp
thông qua tác động hệ thống là tiếp cận hiệu quả trong bối cảnh hiện nay (đó
cũng là tiếp cận hiệu quả ở những bối cảnh khác nhau trong lịch sử phát triển
giáo dục Việt Nam). Như vậy, cần xây dựng hệ thống với sự gắn kết giữa các cơ
sở đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, cơ sở nghiên cứu giáo dục, các
trường mầm non, phổ thông.
Quản lý thông qua hệ thống
được thiết lập với cơ chế tạo được sự tương tác, phối hợp một cách linh hoạt
giữa các cơ sở nêu trên, Bộ GD&ĐT sẽ có điều kiện chỉ đạo hiện thực hóa
những chủ trương của ngành Giáo dục, đặc biệt những cuộc cải cách, đổi mới giáo
dục. Tránh được sự mất cân đối phát triển chất lượng và số lượng đội ngũ giáo
viên, sự tách rời giữa kết quả nghiên cứu lý luận với thực tiễn giáo dục, khắc
phục được sự thiếu chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học giáo dục...
Tính
đến hết năm học 2016 - 2017, hệ thống hiện có 235 trường đại học, học viện, bao
gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn
nước ngoài. Có 37 viện NCKH được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33
trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Đối với nhóm trường sư
phạm và đào tạo giáo viên, hiện nay có 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng,
40 trường trung cấp có ngành đào tạo giáo viên (trong đó có 14 trường đại học
sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm).
Năm
2017, Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng đã có những thống kê cơ bản
về nhu cầu đội ngũ nhà giáo đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Theo đó, áp lực
về số lượng không còn cao như cách đây hai thập kỷ. Điều này là do tác động của
chính sách dân số và số lượng giáo viên cơ bản đủ về số lượng trong giai đoạn
hiện tại. Số lượng cần thiết nhiều nhất hiện nay là giáo viên mầm non, vì nhu
cầu chăm sóc trẻ ngày càng cao của cả hệ thống công lập và tư thục.
Theo
Hiếu Nguyễn (GD&TĐ)