Đây là ý kiến của nhiều nhà khoa học tại hội thảo "Xây dựng cơ chế chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học" do Bộ GD&ĐT tổ chức sáng 25/4 tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
Cần sớm có chính sách đủ mạnh thúc đẩy nhóm nghiên cứu trong trường ĐH
Là trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 "Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam", GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức - Trưởng ban Đào tạo ĐHQG Hà Nội - cho biết: Nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát 216 giảng viên ở 40 trường ĐH, viện nghiên cứu trên cả nước, kết quả cho thấy có 58,8% khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu (NNC).
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến năm học 2016 - 2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường ĐH, hiện nay trong hệ thống các trường ĐH đã hình thành 945 NNC, một trường ĐH có trung bình 7 NNC.
Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Kết quả khảo sát ở ĐHQG Hà Nội cho thấy, 80% các nghiên cứu sinh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của trường, nhờ trưởng thành trong các NNC nên khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI. 100% các NCS ở ĐHQG Hà Nội có công bố quốc tế đều tham gia trong các NNC.
Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2.309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập (Trường ĐH Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng công bố quốc tế của 30 trường ĐH Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài. Con số này hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó (2011-2015), khi toàn Việt Nam mới có 10.034 bài.
Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus của Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009 - 2018) đã tăng gần 5 lần.
Bên cạnh kết quả đạt được, qua khảo sát về thực trạng phát triển, GS. Nguyễn Đình Đức và nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy một số tồn tại, hạn chế chủ yếu của các NNC hiện nay ở Việt Nam, đó là: Còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC; số lượng công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn; nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế.
Ngoài ra, về phía quản lý nhà nước, trường ĐH, còn thiếu chính sách cụ thể, đủ mạnh để hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành, phát triển các NNC trong các trường ĐH.
"Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các nhóm nghiên cứu, chúng tôi kiến nghị cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường ĐH hiện nay. Các chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để phân loại các NNC; cần được lưu ý theo hướng ở lĩnh vực khoa học khác nhau thì cần có tiêu chí đánh giá và hỗ trợ đầu tư khác nhau.
Các NNC cũng có quy mô, trình độ, thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau, khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau; do vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất" - GS. Nguyễn Đình Đức chia sẻ.
"Sự gia tăng của các NNC trong các trường ĐH tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế. NNC chính là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, ngâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực KH&CN cũng như nâng cao xếp hạng của trường ĐH" - GS. Nguyễn Đình Đức cho hay.
Phải chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún
Phát biểu tại hội thảo, GS. Nguyễn Văn Minh - Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội - nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của phòng thí nghiệm với các nghiên cứu thực nghiệm.
Đưa đề xuất trên quan điểm cá nhân, GS. Nguyễn Văn Minh cho rằng cần xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực của đất nước từng giai đoạn và đặt yêu cầu đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo; từ đó đưa ra nhiệm vụ đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm nghiên cứu, đào tạo; gắn kết nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ.
Cần chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải, không đầu tư khi thiếu các luận cứ cốt yếu (sức mạnh, nhân lực...). Vì vậy, cần có tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể để xem xét đầu tư.
GS. Nguyễn Văn Minh cũng cho rằng, cần ưu tiên xây dựng các cơ sở nghiên cứu liên ngành phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nông nghiệp, công nghiệp tiêu dùng, thủy sản và công nghệ thông tin.
Đồng thời, lấy đó làm nền tảng ban đầu để đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu có tính chuyên sâu. Xây dựng chuỗi liên kết: cơ sở nghiên cứu - cơ sở thử nghiệm (pilot) và cơ sở sử dụng. Với những lĩnh vực ưu tiên, sau khi đầu tư có trọng điểm, cần có cơ chế quản lý, cơ chế tài chính để cơ sở chủ động hội nhập nhằm đem lại kết quả nhanh và tốt nhất nhằm phục vụ phát triển kinh tế, xã hội...
Cũng quan tâm đến nội dung này, PGS.TS. Đỗ Ngọc Mỹ - Hiệu trưởng Trường ĐH Quy Nhơn - đưa đề xuất: Trên cơ sở tham khảo tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc tế và trọng nước, cần tổ chức tốt việc xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm trong từng ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở các tiêu chí này, các phòng thí nghiệm sẽ thực hiện, đánh giá hoạt động của mình, từ đó chọn ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm hoạt động hiệu quả.
Những phòng thí nghiệm được coi là trọng điểm được nhà nước ưu tiên đầu tư tài trợ phải là nơi thể hiện được một định hướng phát triển thuyết phục cùng đội ngũ các nhà nghiên cứu giàu năng lực, có kinh nghiệm và khát vọng cống hiến. Năng lực, kinh nghiệm nhất thiết phải được minh chứng qua những sản phẩm nghiên cứu cụ thể.
"Tóm lại, việc xác định đầu ra cho một phòng thí nghiệm trọng điểm là rất quan trọng. Điều này sẽ giúp cho việc xác định các nhóm nghiên cứu có xứng đáng được đầu tư hay không" - PGS.TS. Đỗ Ngọc Mỹ nêu quan điểm.
Theo Lê Đăng (GD&TĐ)